a
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
ĐIỂM BÁO
Ngày 20 tháng 4 năm 2020
Bộ, ngành
1. Ngành thuế đã nhận 14.500 hồ sơ nộp giấy đề nghị gia hạn theo Nghị định 41
2. Đã đến lúc kết thúc "sứ mệnh lịch sử" của hộ khẩu
3. Nền tảng số ‘cứu cánh’ doanh nghiệp trong bối cảnh COVID-19
4. UBTVQH xem xét dự án Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư
5. Cấm sao chép khi giải quyết thủ tục hành chính điện tử
6. Thay đổi phương thức quản lý trong cắt giảm các điều kiện kinh doanh
7. Bộ TT&TT nâng cấp 149 dịch vụ công trực tuyến lên mức 4 trong năm 2020
8. 13 nhóm chính sách của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) nâng cao hiệu quả quản lý
Địa phương
9. Quận Đống Đa: Đẩy mạnh cải cách để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp
10. Dịch vụ công trực tuyến “thử lửa” qua đại dịch Covid-19
11. Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội thực hiện quyết liệt nhiều giải pháp phòng, chống dịch Covid-19
12. Đẩy nhanh các biện pháp trực tuyến giải quyết thủ tục hành chính công
1. Ngành thuế đã nhận 14.500 hồ sơ nộp giấy đề nghị gia hạn theo Nghị định 41
Đến ngày 17/4 (hơn 1 tuần kể từ thời điểm Nghị định 41 được thông
qua), đã có hơn 14.500 hồ sơ nộp giấy đề nghị gia hạn. Hiện cơ quan
thuế sẵn sàng tiếp nhận giấy đề nghị gia hạn cũng như những
vướng mắc, khó khăn của người nộp thuế.
Đây là một nội dung được cập nhật qua hệ thống công nghệ thông tin
(CNTT) của Tổng cục Thuế công bố chiều 17/4.
Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày
08/4/2020 về gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất, Bộ Tài chính đã
chỉ đạo Tổng cục Thuế tổ chức triển khai việc tiếp nhận và xử lý đề nghị
gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất của doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân thuộc diện được áp dụng các quy định về gia hạn.
Tổng cục Thuế đã tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ người nộp
thuế (NNT) thực hiện các thủ tục gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất.
Do phạm vi áp dụng của Nghị định số 41/2020/NĐ-CP có ảnh hưởng đến
số lượng rất lớn NNT trong khi vẫn phải đảm giãn cách xã hội, nhằm giảm
thiểu nguy cơ lây nhiễm cộng đồng theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ
nên Bộ Tài chính đã yêu cầu Tổng cục Thuế triển khai gấp các giải pháp
công nghệ thông tin (CNTT) để bảo đảm phần lớn doanh nghiệp (DN), tổ
chức, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh thực hiện gửi hồ sơ đến cơ
quan thuế bằng hình thức điện tử.
Cụ thể, ngành Thuế đã nâng cấp Cổng thông tin điện tử của Tổng cục
thuế để đảm bảo NNT gửi Giấy đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất
bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục thuế,
qua dịch vụ Thuế điện tử của các Tổ chức cung cấp dịch vụ thuế điện tử
(TVAN) hoặc qua Cổng dịch vụ công quốc gia.
Hiện nay có 763.141 số doanh nghiệp (chiếm 99,91%) và 83.701 hộ/cá
nhân kinh doanh đã có tài khoản khai thuế điện tử (trên Cổng thông tin
điện tử của Tổng cục Thuế và Cổng Dịch vụ công quốc gia). Hạn chế tối
đa việc doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân phải nộp hồ sơ giấy đến cơ quan
thuế.
Ngành thuế cũng hướng dẫn các bước thực hiện trên hệ thống ứng dụng
để cơ quan thuế tiếp nhận Giấy đề nghị gia hạn nộp thuế theo đường
điện tử, thực hiện kiểm tra, xử lý gia hạn đối với các khoản thuế và tiền
thuê đất theo quy định trên Hệ thống ứng dụng của cơ quan thuế.
Cơ quan thuế khuyến khích NNT gửi hồ sơ đề nghị gia hạn đến cơ quan
thuế theo phương thức điện tử. Trường hợp NNT không thể thực hiện gửi
hồ sơ điện tử vì lý do bất khả kháng thì hướng dẫn NNT gửi hồ sơ theo
đường bưu chính, hạn chế tối đa việc nộp hồ sơ tại cơ quan thuế.
Theo quy định tại Nghị định, thời hạn nộp hồ sơ đề nghị gia hạn nộp thuế,
tiền thuê đất chậm nhất là 30/7, tức là còn hơn 3 tháng nữa và quyền lợi
về gia hạn tiền thuế, tiền thuê đất của NNT vẫn được bảo đảm mà không
chịu áp lực về thời gian.
Huy Thắng
Nguồn: http://baochinhphu.vn/Hoat-dong-Bo-nganh/Nganh-thue-da-nhan-
14500-ho-so-nop-giay-de-nghi-gia-han-theo-Nghi-dinh-41/393420.vgp
2. Đã đến lúc kết thúc "sứ mệnh lịch sử" của hộ khẩu
Cách quản lý hộ khẩu hiện nay đang tạo sự phân biệt đối xử, bất
bình đẳng xã hội vì vậy Dự thảo Luật Cư trú với quy định bỏ sổ hộ
khẩu được coi là một "cuộc cách mạng" trong quản lý.
Trong dự thảo Luật Cư trú, Bộ Công an đề xuất sửa đổi Luật Cư trú theo
hướng bỏ sổ hộ khẩu giấy, sổ tạm trú để quản lý dân cư thông qua hình
thức mã số định danh cá nhân.
Việc sửa đổi Luật Cư trú nhằm bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ
thống pháp luật quy định về các giấy tờ của công dân
Xu hướng thời đại
Cụ thể, khi bãi bỏ hình thức quản lý dân cư bằng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú
và thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân cập nhật
thông tin trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu về cư trú sẽ
đơn giản hóa các thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó, việc thực hiện quản lý dân cư thông qua phương thức mới
bằng mã số định danh cá nhân trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ
sở dữ liệu về cư trú sẽ bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ 13 nhóm thủ tục
hành chính liên quan đến đăng ký, quản lý thường trú, tạm trú của công
dân như: Tách sổ hộ khẩu, cấp đổi sổ hộ khẩu, cấp lại sổ hộ khẩu, điều
chỉnh những thay đổi trong sổ hộ khẩu...
Không chỉ có vậy, theo tính toán của Bộ Công an, nếu bỏ hộ khẩu giấy sẽ
giúp tiết kiệm 1.600 tỷ đồng mỗi năm. Việc sử dụng mã số định danh cá
nhân cũng sẽ giúp tiết kiệm gần 300 tỷ đồng chi phí làm sổ bảo hiểm.
Thực tế hiện nay, công dân khi tham gia các giao dịch hoặc thủ tục hành
chính phải mang theo rất nhiều loại giấy tờ như: sổ hộ khẩu, giấy chứng
nhận kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký quyền sử dụng đất, bằng lái xe,
thậm chí học sinh phải có giấy khai sinh... Khi quản lý cư dân thông qua
mã số định danh cá nhân, các loại giấy tờ trên sẽ không còn phải mang
theo trong giải quyết thủ tục hành chính nữa.
Theo lãnh đạo Bộ Công an, khi dự án cơ sở dữ liệu quốc gia đi vào vận
hành, công dân khi đến các cơ quan nhà nước để giải quyết TTHC chỉ
cần đưa ra 3 thông tin cơ bản, gồm: họ, tên; mã số định danh và chỗ ở.
Lúc đó, công dân không cần xuất trình các loại giấy tờ như sổ hộ khẩu,
giấy khai sinh...
Đây có thể là một tin vui cho gần 100 triệu dân trước việc những lời kêu
gọi “bỏ hộ khẩu” thỉnh thoảng lại vang lên rồi chìm nghỉm như “đá ném ao
bèo”. Những động thái của Chính phủ về đơn giản thủ tục hành chính,
cũng như tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, dù chưa đạt được kỳ
vọng như nhân dân mong đợi, cũng lóe lên những tia hy vọng.
Bởi sẽ khó có thể đong đếm cụ thể những lợi ích khi hộ khẩu “hết thời”
mà chỉ có thể nói rằng: lợi ích đó là rất lớn. Phía nhà nước, mà cụ thể là
Bộ Công an, sẽ tinh giản được biên chế và song song với nó là chiến
lược cải cách tiền lương sẽ có tính khả thi cao hơn. Những tiêu cực hoặc
bất cập do hộ khẩu gây ra sẽ nhanh chóng được dẹp bỏ.
Tại phiên họp Thường vụ Quốc hội ngày 17/4, các đại biểu cũng nhận
định: phương thức quản lý cư dân thông qua mã số định danh cá nhân sẽ
giúp không chỉ đơn giản hóa thủ tục, giấy tờ, tiết kiệm chi phí hành chính
cho công dân mà còn góp phần bảo đảm quản lý công dân chặt chẽ, thực
chất, khắc phục nhiều bất cập trong quản lý dân cư ở nước ta hiện nay.
Đây là phương thức quản lý cư trú hiện đại dựa trên việc ứng dụng công
nghệ thông tin, phù hợp với xu thế phát triển được một số quốc gia trên
thế giới áp dụng.
Đã hết giá trị lịch sử
Cuốn sổ hộ khẩu từ lâu đã gắn chặt với sinh mệnh và cuộc sống của mỗi
con người. Dường như đụng đến bất cứ việc gì cũng cần có sổ hộ khẩu:
hợp đồng điện nước, xin học, mua đất, mua nhà, đăng ký xe cộ, khai
sinh, khai tử, thành lập doanh nghiệp, kết hôn, ly hôn…
Mỗi khi chuyển nơi sinh sống, việc hệ trọng nhất là cắt chuyển hộ khẩu.
Mà không phải ai, lúc nào cũng được đăng ký hộ khẩu. Cuốn sổ hộ khẩu
đã trở thành rào cản đối với bao người muốn tìm kiếm cơ hội việc làm,
mưu sinh, lập nghiệp nơi thành phố. Và rồi để có được cuốn sổ hộ khẩu
họ đành phải quỵ lụy nhờ vả, chấp nhận tiêu cực phí không ít.
Nhận định về đề xuất xóa bỏ quản lý cư trú bằng sổ hộ khẩu, Luật sư
Nguyễn Trọng Hiệp, Giám đốc Công ty luật HPVN (Đoàn Luật sư TP.Hà
Nội) cho rằng: Việc ứng dụng công nghệ điện tử trong quản lý dữ liệu cá
nhân, dữ liệu quốc gia về dân cư là cần thiết và phù hợp với xu hướng
hội nhập phát triển công nghệ hiện nay. Bên cạnh đó, cũng cho thấy sự
thống nhất mục tiêu với Luật Căn cước công dân 2014, ban hành ngày
20/11/2014.
Cũng theo Luật sư Hiệp, chúng ta đang ở trong thời kỳ hội nhập phát triển
và kỷ nguyên công nghệ 4.0, rất nhiều quốc gia đã ứng dụng công nghệ
số trong quản lý dữ liệu quốc gia, đem lại nhiều lợi ích trong việc dễ dàng
kết nối, quản lý, kiểm soát thông tin cá nhân. Không chỉ có vậy, việc áp
dụng công nghệ trong quản lý dân cư sẽ đảm bảo được chức năng quản
lý của cơ quan nhà nước và đơn giản hóa được thủ tục hành chính. Từ
đó, cũng hạn chế sự lạm quyền, sách nhiễu trong việc giải quyết các thủ
tục hành chính, tạo nhiều thuận lợi cho người dân.
“Việc ứng dụng công nghệ điện tử trong quản lý các thông tin cá nhân sẽ
làm giảm bớt các thủ tục hành chính cũng như chi phí mà người dân hiện
nay đang phải chi trả. Tuy nhiên, cần lưu ý đến các biện pháp nhằm bảo
mật thông tin cá nhân để người dân an tâm hơn” - Luật sư Nguyễn Trọng
Hiệp nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, Luật sư Đặng Văn Cường (Đoàn Luật sư TP Hà Nội)
cho rằng việc ứng dụng công nghệ điện tử trong quản lý dữ liệu cá nhân,
dữ liệu quốc gia về dân cư là cần thiết và phù hợp với xu hướng phát
triển công nghệ hiện nay.
Đến thời điểm này, rất nhiều quốc gia đã ứng dụng công nghệ số trong
quản lý dữ liệu quốc gia, đem lại nhiều lợi ích trong việc dễ dàng kết nối,
quản lý, kiểm soát thông tin cá nhân.
Theo luật sư Cường, việc áp dụng công nghệ trong quản lý dân cư vẫn
đảm bảo được chức năng quản lý của cơ quan nhà nước và đơn giản
hóa được thủ tục hành chính.
Không phải các cơ quan quản lý nhà nước không nhìn ra những bất cập
ấy, nhưng hình như có sự trì trệ trong thay đổi tư duy và cách thức xây
dựng hạ tầng quản lý xã hội. Công nghệ thông tin, kinh tế số đang đem lại
những tiện ích không chỉ trong kinh doanh, mà còn thúc đẩy các phương
thức quản lý nhà nước phải thay đổi toàn diện. Đành rằng sự thay đổi nào
cũng phải trả giá, nhưng cái giá của lợi ích chung hay những cá nhân vốn
đang hưởng lợi từ sự “lạc hậu” mang lại cũng là thực tế còn tranh chấp.
Bởi sẽ khó có thể đong đếm cụ thể những lợi ích khi hộ khẩu “hết thời”
mà chỉ có thể nói rằng: lợi ích đó là rất lớn. Và đương nhiên, người dân
sẽ được lợi nhiều nhất khi những quyền cơ bản được triệt để tôn trọng và
những nhu cầu thiết thân sẽ không còn trải qua những “đoạn trường”.
Và suy cho cùng, đã đến lúc kết thúc sứ mệnh lịch sử của hộ khẩu!
Năm 2020 xây dựng xong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư
Trong dự thảo Luật Cư trú, Bộ Công an cũng kiến nghị lựa chọn giải
pháp thực hiện quản lý dân cư thông qua số định danh cá nhân để
thay thế hình thức quản lý bằng sổ hộ khẩu và sổ tạm trú là phù hợp
với yêu cầu thực tiễn.
Bộ Công an cho biết hiện nay, việc tổ chức triển khai dự án Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư đã đạt nhiều kết quả quan trọng như: hoàn
thiện khung pháp lý cho việc triển khai dự án; xây dựng hạ tầng
Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư tại Hà Nội và TP.HCM; tổ chức
cấp hơn 8 triệu số định danh cá nhân tại 16 tỉnh, thành phố và phối
hợp với Bộ Tư pháp cấp hơn 900.000 số định danh cá nhân cho trẻ
em mới sinh tại 18 địa phương...
Ngoài ra, ngành công an đang lưu trữ, khai thác, sử dụng có hiệu
quả hệ thống tàng thư chứng minh nhân dân với hơn 60 triệu người
và hệ thống tàng thư hộ khẩu với hơn 80 triệu nhân khẩu.
Bộ Công an đánh giá việc triển khai đồng bộ xây dựng Cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư trên toàn quốc theo lộ trình đến năm 2020 là khả
thi đồng thời có thể tiết kiệm được chi phí và rút ngắn thời gian xây
dựng cơ sở dữ liệu này.
Gia Nguyễn
Nguồn: https://enternews.vn/dien-dan-cai-cach-tthc-da-den-luc-ket-thuc-
su-menh-lich-su-cua-ho-khau-171363.html
3. Nền tảng số ‘cứu cánh’ doanh nghiệp trong bối cảnh COVID-19
Theo nhiều chuyên gia kinh tế, COVID-19 đang gây nhiều khó khăn cho
toàn xã hội và các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tái cơ cấu,
sử dụng công nghệ tăng kết nối với khách hàng để ứng phó.
Mua sắm qua trang web mua sắm trực tuyến. Ảnh: Minh Tú/TTXVN.
Ông Nguyễn Kim Hùng, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Quản trị Doanh
nghiệp nhỏ và vừa (SISME) cho biết: Dịch bệnh COVID-19 đang ảnh
hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp,
nhất là du lịch, vận tải, dịch vụ ăn uống...; trong đó, nhiều doanh nghiệp
đã giảm mạnh doanh số, doanh thu, lợi nhuận giảm xấp xỉ bằng 0. Quý
I/2020, lần đầu tiên sau nhiều năm, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị
trường là 35.000 đơn vị, cao hơn số doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới.
Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm để sàng lọc doanh nghiệp chất lượng
hơn và giúp doanh nghiệp "thay máu", thay đổi cách thức quản lý, kinh
doanh trong nền tảng chuyển đổi số.
Theo bà Phạm Thị Thu Hiền, Giám đốc vận hành Công ty CP Tái cấu trúc
doanh nghiệp Việt, trong bối cảnh dịch COVID-19, doanh nghiệp đã vận
hành sản xuất kinh doanh trên nền tảng ứng dụng Verco24. Nền tảng đã
được Việt hóa phù hợp doanh nghiệp Việt Nam với nhiều tiện ích, có thể
giúp thủ tục hành chính của công ty được thu gọn thông qua phê duyệt
điện tử, qua đó giảm thiểu chi phí vận hành doanh nghiệp.
Các nền tảng số được nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng hiện nay
là Verig Lending hay còn gọi là "chợ vốn điện tử", tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp kết nối nguồn vốn theo cơ chế thị trường và minh bạch hóa
được dòng tiền, định giá doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các công ty
trong chuỗi cung ứng có căn cứ để tài trợ vốn theo giải pháp cho vay
ngang hàng (P2P Lending). "Hiện có khoảng gần 1.000 doanh nghiệp nhỏ
và vừa sử dụng nền tảng Verco24 và Verig Lending để giao dịch, đạt
được hiệu quả cao”, ông Nguyễn Kim Hùng nói.
Từng chia sẻ về nền tảng số, Chủ tịch HĐQT UPGen Vietnam Đỗ Hoài
Nam cho rằng, về khoa học công nghệ, Việt Nam không thể so với các
nước trên thế giới, nhưng Việt Nam có thị trường tương đối lớn. Hiện
nay, bản thân các nền tảng số đã góp một phần quan trọng vào việc tạo
ra môi trường kinh doanh thuận lợi, đặc biệt là các nền tảng trong cung
cấp dịch vụ công nghệ như các ứng dụng về bản đồ, các platform thiết kế
website…
Trong bối cảnh dịch COVID-19, doanh số bán hàng online của một số
siêu thị tại Hà Nội ước tính tăng thêm 20%. Nhiều chuyên gia thương
mại đánh giá, nếu không tồn tại những sàn giao dịch điện tử như: Tiki,
Lazada hoặc các kênh phân phối online, thì còn nhiều doanh nghiệp sẽ
phải đóng cửa trên toàn quốc.
Trước đó, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, việc khuyến khích các doanh
nghiệp tham gia chuyển đổi số thời điểm này sẽ để đẩy nhanh luồng lưu
thông hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Biện pháp này hiệu quả không
kém gói hỗ trợ tín dụng 250.000 tỷ đồng hay gói 30.000 tỷ đồng mà Chính
phủ vừa tung ra.
Đồng quan điểm, TS. Võ Trí Thành, Nguyên Phó Viện trưởng Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, nếu không tham gia
kinh tế nền tảng số, Việt Nam sẽ đứng ngoài cuộc. Thực tế cho thấy, hiệu
quả rất lớn của kinh tế số khi các doanh nghiệp chuyển đổi số thành
công, năng suất đã tăng thêm khoảng 30%. Song, việc chuyển đổi số đối
với các doanh nghiệp không hề đơn giản. Theo thống kê, số lượng các
doanh nghiệp chuyển đổi số thành công chỉ chiếm khoảng 50%.
Đưa ra một hướng quản lý mới cho các nền tảng số, ông Vũ Tú Thành,
Phó Giám đốc điều hành khu vực Hội đồng Kinh tế Hoa Kỳ - ASEAN cho
rằng, các cơ quan quản lý Nhà nước cần quản lý các doanh nghiệp kinh
doanh trên nền tảng số theo giao dịch. Với số lượng các giao dịch đó sẽ
tính toán tỷ lệ hưởng lợi của các bên tham gia, từ đó lấy cơ sở để tính
thuế, phí và quy trách nghiệm cho các bên liên quan dựa trên tỷ lệ phần
trăm hưởng lợi.
"Đơn cử như việc kinh doanh của Grab, công ty này đang giữ lại 28%
doanh thu trên mỗi cuốc chạy xe của người lái xe, người chủ xe được
hưởng, số còn lại là 72%. Do đó, khi tính thuế, phí hoặc khi xảy ra rủi ro,
các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ chia trách nghiệm cho chủ doanh
nghiệp và lái xe dựa trên tỷ lệ phần trăm họ nhận được. Nếu quản lý các
doanh nghiệp kinh doanh trên nền tảng số theo giao dịch như vậy sẽ đảm
bảo công bằng giữa các bên tham gia và không phụ thuộc vào vị trí địa lý
của các doanh nghiệp", ông Vũ Tú Thành dẫn chứng.
Minh Phương/Báo Tin tức
Nguồn: https://baotintuc.vn/thi-truong-tai-chinh/nen-tang-so-cuu-canh-
doanh-nghiep-trong-boi-canh-covid19-20200418162246817.htm
4. UBTVQH xem xét dự án Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Dự án Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) được Ủy
ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) xem xét, cho ý kiến tại phiên
họp thứ 44 diễn ra vào sáng 20/4.
Dự án Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) hiện được
xây dựng với bố cục gồm 11 chương với 108 điều, quy định về hoạt động
đầu tư theo phương thức đối tác công tư; hoạt động quản lý Nhà nước;
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Luật này áp dụng đối với các bên trong hợp đồng đầu tư theo phương
thức đối tác công tư, cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan đến hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công
tư.
Tại phiên họp, UBTVQH đã tập trung thảo luận về những vấn đề còn có ý
kiến khác nhau của dự án luật liên quan đến: Các quy định đối với hợp
đồng xây dựng-chuyển giao (BT); quy mô đầu tư dự án PPP; hoạt động
kiểm toán Nhà nước trong đầu tư theo phương thức PPP; lĩnh vực đầu tư
dự án PPP; tính hợp hiến, hợp pháp, sự thống nhất của luật trong hệ
thống pháp luật nói chung; việc điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án
PPP...
Về lĩnh vực đầu tư dự án PPP (khoản 1 Điều 5), báo cáo giải trình, tiếp
thu, chỉnh lý dự án Luật Đầu tư theo phương thức PPP, Chủ nhiệm Ủy
ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã tiếp
thu, chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng thu hẹp lĩnh vực, chỉ tập trung đầu
tư PPP ở những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, quan tâm đến các dự án
lớn có tính liên kết vùng miền, tính lan toả đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của ngành, địa phương.
Để phù hợp với thực tiễn, dự thảo Luật quy định nguyên tắc chung, chỉ rõ
5 nhóm lĩnh vực thể hiện tại Khoản 1 Điều 5 với các lý do lựa chọn các
lĩnh vực này như trong bản đầy đủ của dự thảo báo cáo giải trình, tiếp
thu, chỉnh lý dự án Luật. Đồng thời, nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong
triển khai trên thực tế, bổ sung quy định tại Khoản 2 Điều 5 để xử lý tình
huống phát sinh dự án ngoài lĩnh vực quy định tại Khoản 1 Điều 5 nhưng
cần thiết, đáp ứng 4 điều kiện và có khả năng thực hiện đầu tư theo
phương thức PPP, cơ quan có thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ
cho phép thực hiện đầu tư theo phương thức PPP.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi với một số lĩnh vực khác,
đồng thời đề nghị không quy định Khoản 2 Điều 5.
Về quy mô đầu tư dự án PPP (khoản 3 Điều 5), theo ông Vũ Hồng Thanh,
sau phiên họp thứ 43 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo Luật gửi
xin ý kiến ĐBQH chuyên trách đề xuất 2 phương án. Cụ thể, phương án
1: Chính phủ quy định chi tiết quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án
PPP đối với từng lĩnh vực quy định tại Khoản 1 Điều 5, nhưng không thấp
hơn 200 tỷ đồng. Quy định này thống nhất với định hướng thu hẹp lĩnh
vực đầu tư dự án PPP như đã nêu ở trên, xác định quy mô tổng mức đầu
tư tối thiểu của dự án PPP nhằm bảo đảm có sự tập trung đầu tư lớn vào
các dự án PPP quan trọng cần khuyến khích, ưu tiên thu hút nguồn lực
đầu tư từ khu vực tư nhân. Đối với các dự án đầu tư tại vùng sâu, vùng
xa chủ yếu thực hiện thông qua đầu tư công vì nếu đầu tư qua phương
thức PPP sẽ không bảo đảm nguồn thu để duy trì việc cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ công cũng như khó thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu
tư cùng Nhà nước.
Phương án 2: Chính phủ quy định chi tiết quy mô tổng mức đầu tư tối
thiểu của dự án PPP không thấp hơn 100 tỷ đồng đối với từng lĩnh vực
như đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục - đào tạo, y tế... hoặc theo địa bàn
như đô thị, đồng bằng, miền núi, vùng sâu vùng xa. Quy định này nhằm
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở những địa bàn khó khăn, có ý nghĩa
to lớn về mặt xã hội và giúp nhiều đối tượng được thụ hưởng trong khi
nguồn lực đầu tư công còn hạn hẹp, không đáp ứng nhu cầu.
Theo báo cáo tổng hợp ý kiến các ĐBQH chuyên trách, có 9 ý kiến nhất
trí phương án 1, 7 ý kiến nhất trí phương án 2.
Về điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án PPP (Điều 19), sau phiên họp thứ
43 của UBTVQH, dự thảo Luật gửi xin ý kiến ĐBQH chuyên trách đề xuất
2 phương án. Phương án 1: Khi tổng mức đầu tư dự án PPP tăng so với
tổng mức đầu tư đã được quyết định tại bước chủ trương đầu tư dự án
thì phải thực hiện điều chỉnh chủ trương đầu tư vì cho rằng việc tăng tổng
mức đầu tư sẽ làm thay đổi phương án tài chính cũng như hiệu quả của
dự án PPP. Khi điều chỉnh báo cáo nghiên cứu khả thi cũng không được
phép làm tăng tổng mức đầu tư. Quy định này nhằm quản lý chặt chẽ dự
án, tránh tình trạng lách luật (cố tình lập dự án với tổng mức đầu tư thấp,
sau khi được phê duyệt lại điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư), tăng trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức lập, trình dự án PPP và cấp có thẩm quyền
quyết định chủ trương đầu tư, đồng thời phù hợp với quy định tại Luật
Đầu tư công.
Phương án 2: Để hạn chế việc phải điều chỉnh chủ trương đầu tư nhiều
lần và tránh thủ tục phức tạp, kéo dài, dự thảo Luật quy định trường hợp
thay đổi tăng tổng mức đầu tư từ 10% trở lên thì mới phải điều chỉnh chủ
trương đầu tư dự án PPP.
Theo báo cáo tổng hợp ý kiến các ĐBQH chuyên trách, có 7 ý kiến nhất
trí phương án 1, 7 ý kiến nhất trí phương án 2.
Về hoạt động kiểm toán Nhà nước trong đầu tư theo phương thức PPP
(Điều 86), theo ông Vũ Hồng Thanh, Thường trực Ủy ban Kinh tế thấy
rằng cơ chế, chính sách pháp luật vừa phải bảo đảm chất lượng dịch vụ
công nhưng đồng thời phải tạo điều kiện thu hút, huy động tối đa nguồn
vốn từ khu vực tư nhân đầu tư vào các dự án PPP. Mặt khác, Hiến pháp
và pháp luật về kiểm toán Nhà nước quy định kiểm toán Nhà nước chỉ
thực hiện kiểm toán tài chính công, tài sản công.
Do đó, hướng tiếp thu, sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động kiểm toán
Nhà nước như sau: (i) Kiểm toán tuân thủ về quá trình chuẩn bị dự án,
kết quả lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án PPP; (ii) kiểm toán việc sử
dụng vốn Nhà nước bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư,
hỗ trợ xây dựng công trình tạm (nếu có) quy định tại Điều 73 của Luật
này, hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng khi tách thành
một dự án thành phần quy định tại điểm a khoản 5 Điều 71 của Luật này,
sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT
quy định tại khoản 3 Điều 45 của Luật này; (iii) kiểm toán hoạt động để
đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở các chỉ số đánh giá
chất lượng sản phẩm, dịch vụ của dự án PPP; (iv) khi chuyển giao cho
Nhà nước, thực hiện kiểm toán toàn bộ giá trị tài sản của dự án PPP.
Đề cập đến vấn đề về vốn Nhà nước trong dự án PPP (mục 1 Chương
VI), ông Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh, trong quá trình thảo luận, lấy ý kiến
về dự án Luật, có ý kiến đề nghị bổ sung chức năng cho Quỹ tích lũy trả
nợ quy định tại Luật Quản lý nợ công để thực hiện nhiệm vụ xử lý rủi ro
phần giảm doanh thu thay cho việc sử dụng vốn Nhà nước, tuy nhiên việc
bổ sung chức năng cho Quỹ tích lũy trả nợ chưa được đánh giá tác động
chính sách kỹ lưỡng, ngoài ra chưa được Chính phủ thống nhất trình
Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8.
Bên cạnh đó, về các quy định đối với hợp đồng BT, ông Vũ Hồng Thanh
cho biết, Thường trực Uỷ ban Kinh tế đã tiếp thu, sửa đổi, bổ sung quy
định liên quan đến dự án BT theo phương thức mới theo hướng chặt chẽ
hơn tại dự thảo Luật, tạo lập cơ sở pháp lý thống nhất để điều chỉnh dự
án BT nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong thời
gian qua, bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật về quản lý, sử
dụng tài sản công, pháp luật về ngân sách Nhà nước. Đồng thời, kiến
nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát, kiến nghị sửa đổi,
bổ sung tại các luật có liên quan nhằm minh bạch hơn nữa trong quản lý,
bảo đảm xử lý được các vấn đề tiêu cực có thể xảy ra đối với việc triển
khai thực hiện dự án áp dụng loại hợp đồng BT.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng hợp đồng BT về bản chất không phải là hợp
đồng PPP, đề nghị không quy định trong dự thảo Luật.
Phát biểu kết thúc thảo luận về nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội
Phùng Quốc Hiển đề nghị các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành
viên UBTVQH để bổ sung, hoàn thiện dự án Luật cũng như hoàn thiện
báo cáo giải trình dự án luật để gửi xin ý kiến Thường vụ Quốc hội sau đó
gửi xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội trước khi trình ra Quốc hội xem
xét, quyết định.
Nguyễn Hoàng
Nguồn: http://baochinhphu.vn/Thoi-su/UBTVQH-xem-xet-du-an-Luat-Dau-
tu-theo-phuong-thuc-doi-tac-cong-tu/393490.vgp
5. Cấm sao chép khi giải quyết thủ tục hành chính điện tử
Cán bộ tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện
tử không được can thiệp trái phép, làm sai lệch dữ liệu hồ sơ, tiết lộ
thông tin, sao chép dữ liệu trái thẩm quyền.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 45/2020 về thực hiện thủ tục hành
chính (TTHC) trên môi trường điện tử. Nghị định có hiệu lực thi hành từ
ngày 22-5 tới.
Theo đó, việc thực hiện TTHC trên môi trường điện tử có giá trị pháp lý
như các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận, giải quyết TTHC trên môi trường
điện tử (gọi tắt là người tiếp nhận, giải quyết TTHC) không được cản trở
việc lựa chọn phương thức thực hiện TTHC trên môi trường điện tử của
tổ chức, cá nhân.
Ảnh minh họa. Ảnh: VGP
Người tiếp nhận, giải quyết TTHC không được yêu cầu tổ chức, cá nhân
nộp giấy tờ, tài liệu bằng văn bản giấy để xác minh, kiểm tra đối với các
thành phần hồ sơ đã được ký số và ghi nhận tính pháp lý trong quá trình
tiếp nhận, giải quyết TTHC.
Người tiếp nhận, giải quyết TTHC không được can thiệp trái phép vào
quá trình thực hiện TTHC trên môi trường điện tử gồm: truyền, thu thập,
xử lý, gửi hoặc thông báo kết quả xử lý hồ sơ, giao dịch thanh toán; can
thiệp trái phép, làm sai lệch dữ liệu hồ sơ, giao dịch thanh toán, kết quả
xử lý TTHC; tiết lộ thông tin, sao chép dữ liệu trái thẩm quyền.
Người tiếp nhận, giải quyết TTHC không được gian lận, mạo nhận, chiếm
đoạt, sử dụng trái phép danh tính điện tử của tổ chức, cá nhân, cơ quan
có thẩm quyền.
Ngoài ra, người tiếp nhận, giải quyết TTHC không được thực hiện các
hành vị bị cấm khác của pháp luật có liên quan đến hoạt động của cán
bộ, công chức, viên chức trên môi trường điện tử.
Dương Dung
Nguồn: https://plo.vn/phap-luat/cam-sao-chep-khi-giai-quyet-thu-tuc-hanh-
chinh-dien-tu-906629.html
6. Thay đổi phương thức quản lý trong cắt giảm các điều kiện kinh doanh Ngay từ đầu năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 02/NQ-CP
(Nghị quyết 02) về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia trong năm 2020.
Ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương. Ảnh: vietnamplus.vn
Đây là năm thứ 7 liên tiếp, Chính phủ ban hành Nghị quyết về cắt giảm
điều kiện kinh doanh, giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành
chính cho doanh nghiệp. Qua 7 năm nỗ lực cải cách cắt giảm các điều
kiện kinh doanh, nếu xét riêng trong khu vực ASEAN, Việt Nam vẫn chưa
hoàn thành được mục tiêu lọt vào nhóm 4 nước có môi trường kinh
doanh tốt nhất.
Để cùng tìm hiểu rõ hơn về những nỗ lực và các giải pháp cải cách thủ
tục kinh doanh của các cơ quan trong Chính phủ, phóng viên TTXVN đã
có cuộc trao đổi với ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương.
Qua 7 năm liên tiếp Chính phủ ban hành Nghị định về cải cách thủ tục kinh
doanh, ông đánh giá như thế nào về các kết quả đạt được?
Sau 7 năm thực hiện các nghị quyết liên quan đến cắt giảm điều kiện kinh
doanh, Việt Nam đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Đầu tiên phải khẳng
định là đã cắt giảm được sự tùy tiện của các bộ ngành trong việc ban
hành các văn bản chính sách liên quan đến điều kiện kinh doanh.
Trước đây, các điều kiện kinh doanh có thể nằm cả trong các thông tư, có
nghĩa là thuộc thẩm quyền ban hành của các bộ, ngành. Thậm chí trước
đây, một số địa phương cũng có thể ban hành điều kiện kinh doanh.
Tuy nhiên, từ năm 2016 trở lại đây, Chính phủ quy định tất cả các điều
kiện kinh doanh chỉ được quy định trong nghị định, có nghĩa là thuộc thẩm
quyền của Chính phủ và Quốc hội. Như vậy, Việt Nam đã chấm dứt được
tình trạng tùy tiện trong việc đưa ra các điều kiện kinh doanh.
Thứ hai, sau 7 năm, chúng ta đã dần dần cắt bỏ được số lượng các điều
kiện kinh doanh không hợp lý, không cần thiết. Ví dụ từ năm 2017-2019,
Việt Nam đã cắt giảm được hàng nghìn các điều kiện kinh doanh. Như
vậy, chúng ta đã giảm được các yêu cầu bất hợp lý và giảm được gánh
nặng cho các doanh nghiệp.
Là thành viên Ban soạn thảo Nghị quyết năm nay, ông có thể chia sẻ về những
nội dung trọng tâm được đặt ra trong năm nay như thế nào?
Có thể nói, cách tiếp cận của Nghị quyết 02 năm nay khác năm 2019. Có
điểm chung là Chính phủ vẫn lấy cách tiếp cận chung của thế giới về cải
thiện môi trường kinh doanh, lấy thứ tự xếp hạng chung của thế giới là
trọng tâm và là thước đo cho sự thành công hay thất bại của việc cải cách
nhưng điểm nhấn năm nay là tập trung ở hai khía cạnh.
Thứ nhất, Chính phủ tập trung cải cách điều kiện kinh doanh, điều này
các nước không làm như vậy.
Thứ hai, năm nay Chính phủ đưa ra các chỉ đạo rất cụ thể trong yêu cầu
về cắt giảm các điều kiện kinh doanh. Ví dụ yêu cầu Bộ Tài chính sửa đổi
Nghị định 139/2016/NĐ-CP Quy định về lệ phí môn bài. Điều này khác với
năm 2019, khi Chính phủ tạo dư địa linh hoạt cho các bộ, ngành cắt giảm
và thực thi cải cách.
Thứ ba là Chính phủ nhấn mạnh đến cải cách thực chất về cắt giảm thời
gian và chi phí cho doanh nghiệp chứ không nhấn mạnh đến thứ hạng cải
cách để đánh giá về thành công trong cải cách môi trường kinh doanh.
Thưa ông, Chính phủ đã rất nỗ lực và quyết tâm chỉ đạo cải cách thủ tục kinh
doanh, còn về phía các bộ, ngành và địa phương thì sao? Theo ông, những
ngành, lĩnh vực nào chậm cải cách nhất?
Rất khó để nói cảm quan về bộ ngành nào tích cực hay không tích cực.
Muốn so sánh, chúng ta chỉ xem lĩnh vực nào còn chậm cải cách thì rõ
ràng là ngành, bộ đó chưa tích cực. Ví dụ trong những năm qua chỉ số về
phá sản, giải quyết tranh chấp hợp đồng vẫn còn chậm cải cách, trong khi
nhiều chỉ số cải cách có tiến bộ.
Tất nhiên trong 3 tháng thực hiện Nghị quyết 02, đã ghi nhận một số bộ
ngành rất tích cực trong cắt giảm điều kiện kinh doanh. Cụ thể, Bộ Công
Thương đã lần thứ 2 cắt giảm các điều kiện kinh doanh cho thấy sự nỗ
lực của Bộ này.
Mặc dù các bộ, ngành đã tích cực vào cuộc nhưng chỉ số khởi sự kinh doanh của
Việt Nam vẫn rất thấp. Theo ông, chúng ta cần có giải pháp gì để đạt mục tiêu
nâng chỉ số này lên từ 10 - 15 bậc như Nghị quyết 02 đã đặt ra?
Như tinh thần của Thủ tướng yêu cầu trong Nghị quyết 02, muốn cải cách
các thủ tục gia nhập thị trường thì phải cắt giảm các thủ tục không cần
thiết. Hiện để gia nhập thị trường phải qua 8 thủ tục liên quan và phải mất
17 ngày với các chi phí không cần thiết. Như vậy, chỉ có cắt giảm các thủ
tục này mới có thể nâng cao chỉ số về khởi sự doanh nghiệp. Từ đầu
năm đã có động thái tích cực trong việc cải thiện các chỉ số gia nhập thị
trường.
Cụ thể, như Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/2020/NĐ-CP về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2016/NĐ-CP ngày 04
tháng 10 năm 2016 của Chính phủ quy định về lệ phí môn bài. Nghị định
quy định cắt giảm thuế môn bài năm đầu tiên cho doanh nghiệp, điều này
đã giúp doanh nghiệp tham gia thị trường dễ hơn và giảm chi phí 2 triệu
đồng cho doanh nghiệp.
Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đang được giao là đầu mối sửa đổi
Luật Doanh nghiệp; trong đó dự kiến bãi bỏ các thủ tục không cần thiết
liên quan đến con dấu hay thủ tục khai thuế. Điều này sẽ tạo điều kiện cải
thiện hơn chỉ số gia nhập thị trường của Việt Nam.
Hiện có nhiều bộ luật quy định về các điều kiện kinh doanh chung chung tạo ra
các rào cản cho doanh nghiệp. Vậy xin ông cho biết, đâu là giải pháp cho vấn đề
này?
Cách làm hiện nay là đang yêu cầu các bộ, ngành tự rà soát các điều kiện
kinh doanh của chính mình sau đó lại tự kiến nghị cắt bỏ. Đấy là cách
quản lý điều kiện kinh doanh theo đầu vào. Cách làm này trong thời gian
qua cũng đã ghi nhận hiệu quả nhất định tuy nhiên vẫn có giải pháp khác
có thể hiệu quả hơn.
Nhìn các điều kiện kinh doanh có thể thấy còn nhiều dư địa để cắt giảm.
Chính vì vậy, cần phải thay đổi phương thức quản lý theo phương thức
đầu ra. Nghĩa là là chúng ta cần có bộ phận tham mưu của Chính phủ. Bộ
phận này rà soát, kiến nghị và có thẩm quyền độc lập kiến nghị bãi bỏ các
điều kiện kinh doanh.
Để môi trường kinh doanh Việt Nam lọt vào nhóm 4 nước đứng đầu ASEAN như
mục tiêu đặt ra, chúng ta cần có các giải pháp hữu hiệu gì, thưa ông?
Theo tôi, trong thời gian tới, cần có các biện pháp mới.
Thứ nhất, cần siết chặt kỷ cương, kỷ luật hành chính, tôi nghĩ đây là điều
quan trọng nhất.
Thứ hai, cần có sự áp đặt từ trên xuống, vì cải cách đôi khi không tạo ra
được sự đồng thuận tất cả. Như tôi đề xuất ở trên là cần thành lập đơn vị
tham mưu cho Chính phủ có đủ thẩm quyền và độc lập về chuyên môn để
kiến nghị Chính phủ và áp đặt các bộ, ngành thực hiện./.
Xin cảm ơn ông!
Quốc Huy (Thực hiện)
Nguồn: https://baotintuc.vn/kinh-te/thay-doi-phuong-thuc-quan-ly-trong-
cat-giam-cac-dieu-kien-kinh-doanh-20200419083023011.htm
7. Bộ TT&TT nâng cấp 149 dịch vụ công trực tuyến lên mức 4 trong năm 2020
Theo kế hoạch mới được Bộ TT&TT ban hành, trong năm nay, Bộ sẽ
thực hiện nâng cấp 149 dịch vụ công trực tuyến từ mức độ 2, 3 lên
mức 4. Đây là mức cao nhất, được cung cấp hoàn toàn qua mạng.
Kế hoạch triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 năm 2020 của Bộ
TT&TT vừa được Thứ trưởng Phạm Anh Tuấn ký quyết định phê duyệt.
Bộ TT
Kế hoạch hướng tới mục tiêu cung cấp đầy đủ 100% các dịch vụ công
trực tuyến thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ ở mức độ 4; phấn đấu tỷ
lệ thủ tục hành chính có phát sinh hồ sơ trực tuyến trên tổng số thủ tục
hành chính trực tuyến mức độ 3, 4 và tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính được
xử lý trực tuyến hàng năm tăng gấp đôi trong giai đoạn 2020 - 2021. Đạt
tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến được kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia
theo lộ trình của Chính phủ giao.
Một mục tiêu cụ thể của kế hoạch trong năm nay là hoàn thành Cổng dịch
vụ công trực tuyến của Bộ TT&TT theo hướng tập trung, thống nhất để
cung cấp dịch vụ công trực tuyến thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ.
Cùng với đó, Bộ TT&TT cũng sẽ tích hợp 6 dịch vụ công trực tuyến với
Cổng dịch vụ công quốc gia, đồng thời áp dụng cơ chế đăng nhập một lần
SSO đồng bộ trạng thái hồ sơ thủ tục hành chính và kết nối hệ thống hỗ
trợ thanh toán trực tuyến toàn quốc. Trên cơ sở đó, đưa tỷ lệ dịch vụ có
phát sinh hồ sơ trực tuyến trên tổng số dịch vụ công trực tuyến đạt từ
50% trở lên, tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến đạt từ
40% trở lên.
Cho phép người dân, doanh nghiệp thanh toán phí, lệ phí (nếu có) trực
tuyến, không dùng tiền mặt, bằng nhiều phương tiện khác nhau khi sử
dụng dịch vụ công của Bộ TT&TT. Đẩy mạnh phương thức tiếp nhận hồ
sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công
ích.
Đáng chú ý, trong kế hoạch mới ban hành, danh sách 149 dịch vụ công
trực tuyến mức độ 2, 3 sẽ được nâng cấp lên mức 4 trong năm nay trên
hệ thống của Bộ và của đơn vị cũng được Bộ TT&TT công bố.
Trong đó, Vụ Bưu chính có 6 dịch vụ sẽ nâng cấp từ mức 3 lên mức 4,
với thời hạn hoàn thành là tháng 5/2020; Vụ CNTT có 6 dịch vụ, nâng từ
mức 2 lên mức 4, thời hạn hoàn thành cũng là tháng 5/2020; Vụ Khoa
học và Công nghệ có 2 dịch vụ; Cục Báo chí có 15 dịch vụ; Cục Phát
thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử có 41 dịch vụ; Cục Xuất bản, In
và Phát hành có 24 dịch vụ; Cục An toàn thông tin và Cục Tần số vô
tuyến điện mỗi cơ quan đều có 8 dịch vụ; Cục Viễn thông có 32 dịch vụ;
Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia có 5 dịch vụ; và số dịch vụ công
trực tuyến sẽ được nâng cấp lên mức 4 trong năm 2020 của Trung tâm
Internet là 2 dịch vụ.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, trong kế hoạch, Bộ TT&TT đã phân
công cụ thể các nội dung công việc cho các đơn vị trong Bộ tập trung triển
khai như: Thống nhất các biểu mẫu, thành phần hồ sơ trong quy trình
điện tử giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính; Xây dựng, ban hành quy trình
nội bộ, quy trình điện tử trong xử lý hồ sơ thủ tục hành chính; chuẩn hóa
mã tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính theo Nghị định 61 của Chính phủ;
Xây dựng và nâng cấp Cổng dịch vụ công của Bộ…
Bộ TT&TT yêu cầu các cơ quan, đơn vị chủ trì cung cấp dịch vụ công trực
tuyến phải chủ động thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ các nhiệm vụ được
giao. Xây dựng kế hoạch triển khai của đơn vị, nêu rõ danh mục các dịch
vụ công trực tuyến mức 4 cần thực hiện, thời gian cụ thể hoàn thành
trong năm 2020 và các biện pháp để thúc đẩy việc nộp hồ sơ trực tuyến,
tăng tỷ lệ hồ sơ được giải quyết trực tuyến.
Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ TT&TT chủ trì cung cấp dịch vụ công trực
tuyến cũng được yêu cầu phải chủ động trong kết nối, tích hợp hệ thống
dịch vụ công của đơn vị mình (nếu có) với Cổng dịch vụ công của Bộ,
Cổng dịch vụ công quốc gia theo hướng dẫn của Trung tâm thông tin.
Các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về chất lượng xử
lý dịch vụ công trực tuyến (tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến, tỷ lệ hồ sơ nộp
trực tuyến) đối với các dịch vụ công thuộc thẩm quyền của đơn vị mình.
Vân Anh
Nguồn: https://vietnamnet.vn/vn/thong-tin-truyen-thong/bo-tt-tt-nang-cap-
149-dich-vu-cong-truc-tuyen-len-muc-4-trong-nam-2020-634431.html
8. 13 nhóm chính sách của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) nâng cao hiệu quả quản lý Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
nhận định 13 nhóm chính sách của Luật Bảo vệ môi trường (sửa
đổi) đã được đánh giá tác động trong Báo cáo đánh giá tác động
chính sách, đáp ứng với thu thế phát triển, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của công cụ quản lý.
Tên gọi và phạm vi sửa đổi
Tại Hội nghị Thẩm tra sơ bộ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Bảo vệ môi trường (BVMT), Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi
trường (KH,CN&MT) của Quốc hội báo cáo, hồ sơ dự án Luật của Chính
phủ trình là dự án Luật BVMT (sửa đổi).
Theo đó, Chính phủ đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh, sửa đổi toàn
diện Luật BVMT năm 2014 thay vì Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Bảo vệ môi trường như Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày
11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019.
Bên cạnh 07 chính sách trong hồ sơ đề nghị xây dựng Luật của Chính
phủ tại Tờ trình số 48/TTr-CP ngày 25/02/2019, dự án Luật bổ sung 06
chính sách mới, kèm theo Báo cáo đánh giá tác động của cả 13 chính
sách.
Thường trực Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ
sung toàn diện các quy định về hoạt động BVMT; quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong hoạt động
BVMT; trách nhiệm quản lý nhà nước về BVMT… với rất nhiều nội dung
quy định chính sách mới theo hướng thay đổi/đổi mới cơ chế, biện pháp,
công cụ quản lý có tính cách mạng trong hoạt động BVMT cho phù hợp
hơn với thực tiễn và thông lệ quốc tế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về BVMT.
Thường trực Ủy ban KH,CN&MT cho rằng, với những đề xuất sửa đổi, bổ
sung và phạm vi điều chỉnh như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ thì
việc đổi tên dự án Luật thành Luật BVMT (sửa đổi) là phù hợp; kính đề
nghị Ủy ban TVQH xem xét, thống nhất phương án trình Quốc hội dự án
Luật BVMT sửa đổi.
Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội chủ trì Hội
nghị Thẩm tra sơ bộ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Bảo vệ môi trường
13 nhóm chính sách của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)
Bộ Tài nguyên và Môi trường được Chính phủ giao làm Cơ quan chủ
trì soạn thảo Luật BVMT sửa đổi. Bộ đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên
tập; tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật BVMT 2014; rà
soát các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, cam kết,
điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia liên quan đến BVMT; nghiên cứu
kinh nghiệm quản lý môi trường của các nước để học hỏi, tiếp thu.
Dự thảo Luật đã được lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI), một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, chuyên
gia trong và ngoài nước; đăng tải trên các cơ quan truyền thông đại
chúng.
Ban soạn thảo cũng đã dịch toàn bộ dự thảo Luật để lấy ý kiến tham vấn
các tổ chức quốc tế; trực tiếp làm việc với VCCI về dự thảo Luật. Bộ Tư
pháp đã họp và có Báo cáo thẩm định dự án Luật; Chính phủ đã họp cho
ý kiến về nội dung của dự án Luật tại phiên họp thường kỳ tháng 02 năm
2020. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các thành viên Chính phủ, Chính phủ
đã hoàn thiện dự án Luật, trình Quốc hội.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi
trường bám sát 13 nhóm chính sách đã được đánh giá tác động trong
Báo cáo đánh giá tác động chính sách, cụ thể:
Nhóm chính sách về tiêu chí sàng lọc dự án đầu tư: sửa đổi, bổ sung các
quy định liên quan đến chiến lược BVMT quốc gia, quy hoạch BVMT,
phân vùng môi trường, đánh giá sơ bộ tác động môi trường làm cơ sở để
kiểm soát các hoạt động phát triển KT-XH, định hướng, sàng lọc các dự
án đầu tư phát triển phù hợp với mục tiêu BVMT.
Cụ thể: (1) Bổ sung nội dung về chiến lược BVMT quốc gia; (2) Chỉnh
sửa, bổ sung quy định về nội dung chính, sản phẩm của quy hoạch BVMT
quốc gia, nội dung BVMT trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; (3) Bổ
sung quy định về phân vùng môi trường làm cơ sở cho quy hoạch BVMT,
trên cơ sở đảm bảo tính khách quan, phù hợp với điều kiện tự nhiên,
chấp nhận tính đồng nhất tương đối và hài hòa với phân vùng KT-XH; (4)
Bổ sung quy định về đánh giá sơ bộ tác động môi trường, trong đó thu
hẹp hơn đối tượng phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường theo Luật
Đầu tư, Luật Đầu tư công vì thực tế các dự án có cấu phần xây dựng mới
có tác động đến môi trường, bổ sung đối tượng là các dự án đầu tư thuộc
thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh; các quy
định này không làm phát sinh thêm TTHC.
Nhóm chính sách về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường:
Về đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC): điều chỉnh đối tượng phải
ĐMC theo hướng không quy định đối với kế hoạch, bổ sung đối tượng là
các dự án luật, pháp lệnh, chương trình mục tiêu quốc gia có chính sách,
nội dung liên quan đến BVMT, thu hẹp đối tượng đối với các chiến lược
(chỉ các chiến lược cấp quốc gia về phát triển ngành, lĩnh vực). Bỏ thủ tục
thẩm định báo cáo ĐMC mà lồng ghép với quá trình thẩm định, thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chiến
lược để bảo đảm tính thống nhất, cải cách TTHC.
Về đánh giá tác động môi trường (ĐTM): đã xác lập lại theo đúng vai trò
của ĐTM trong giai đoạn chuẩn bị dự án; việc quản lý dự án, cơ sở khi đi
vào vận hành được thay thế bằng công cụ giấy phép môi trường (GPMT),
đăng ký môi trường. Quy định rõ dự án đầu tư chỉ phải thực hiện các
TTHC về môi trường theo một trong bốn trường hợp: (1) Chỉ phải thực
hiện ĐTM; (2) Phải thực hiện ĐTM và có GPMT; (3) Chỉ phải có GPMT;
(4) Không phải thực hiện ĐTM và GPMT.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã: Thu hẹp đối tượng phải thực hiện ĐTM,
chỉ bao gồm những dự án đầu tư sử dụng diện tích đất, mặt nước lớn, có
ảnh hưởng xấu đến môi trường, cảnh quan thiên nhiên quan trọng, hệ
sinh thái, đa dạng sinh học và những dự án có phát sinh chất thải lớn, có
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; danh mục cụ thể giao Chính phủ quy
định; Bổ sung quy định về điều kiện (cơ sở vật chất, cán bộ chuyên môn)
đối với các tổ chức thực hiện ĐTM; Giao thẩm quyền thẩm định ĐTM của
các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành (theo phương án 1
được Chính phủ đề xuất); Thay thế việc phê duyệt báo cáo ĐTM bằng
phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM; Bãi bỏ thủ tục về xác nhận kế
hoạch BVMT mà thay bằng công cụ GPMT hoặc đăng ký môi trường; Quy
định thời gian thẩm định ĐTM để đảm bảo phù hợp với các dự án lớn,
phức tạp cần tham vấn ý kiến các bên liên quan.
Nhóm chính sách về giấy phép môi trường, đăng ký môi trường: Để đẩy
mạnh cải cách TTHC, dự thảo Luật quy định việc tích hợp giấy phép xả
nước thải vào nguồn nước, công trình thủy lợi, các loại giấy phép về môi
trường hiện hành vào GPMT; quy định sự phối hợp giữa các cơ quan liên
quan trong quá trình cấp giấy phép. Đối tượng phải có GPMT là các dự
án, cơ sở có phát sinh nguồn thải với khối lượng lớn, có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường trong quá trình vận hành; đối tượng chỉ phát sinh chất
thải thông thường với khối lượng nhỏ chỉ phải đăng ký môi trường theo
hình thức đơn giản, trực tuyến; đối tượng quy mô hộ gia đình, cá nhân và
một số đối tượng khác được miễn GPMT, đăng ký môi trường.
Quy định nội dung chính của báo cáo đề xuất cấp GPMT để làm căn cứ
cấp phép, trong đó dự án không phải thực hiện ĐTM phải đầy đủ, cụ thể
thông tin hơn so với dự án đã có ĐTM. Quy định thời gian cấp giấy phép
đảm bảo ngắn hơn tổng thời gian thực hiện các TTHC theo quy định hiện
hành; thời hạn của giấy phép tối đa là 10 năm để phù hợp với yêu cầu rà
soát công nghệ xử lý chất thải, rà soát, điều chỉnh quy chuẩn kỹ thuật về
môi trường và kinh nghiệm quốc tế.
Nhóm chính sách về quản lý chất thải và công nghệ xử lý chất thải: Bổ
sung quy định về phân loại CTR tại nguồn; thay đổi phương thức tính chi
phí thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) theo
hướng căn cứ vào việc phân loại. Bổ sung quy định khuyến khích áp
dụng các công nghệ thân thiện môi trường, công nghệ tốt nhất hiện có
(BAT), công nghệ xử lý kết hợp với thu hồi năng lượng trong xử lý
CTRSH; không khuyến khích chôn lấp CTRSH; không cho phép đầu tư
cơ sở xử lý CTRSH quy mô nhỏ. Quy định cơ chế quản lý linh hoạt đối
với chủ nguồn thải CTR thông thường phát sinh với khối lượng nhỏ; trách
nhiệm giảm thiểu, phân loại, thải bỏ chất thải nhựa sử dụng một lần, túi ni
lông khó phân hủy, sản phẩm nhựa dùng một lần; trách nhiệm của các cơ
quan quản lý đối với từng nhóm chất thải. Bên cạnh đó, dự thảo Luật
cũng đã quy định trách nhiệm đầu tư, lắp đặt thiết bị xử lý nước thải tại
chỗ đối với hộ gia đình và cơ sở kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ (khi cải tạo,
xây dựng mới); bổ sung quy định khuyến khích kiểm toán môi trường tại
các cơ sở sản xuất.
Nhóm chính sách về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường: Nhằm
đảm bảo mục tiêu bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường sống và người
dân Việt Nam phải được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với
các nước tiên tiến trên thế giới, dự thảo Luật đã đưa ra các quy định cụ
thể về nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường, nguyên tắc xây dựng quy
chuẩn đối với một số nhóm quy chuẩn chủ yếu; đưa ra nguyên tắc áp
dụng quy chuẩn như: đối với các khu vực không còn khả năng duy trì mục
tiêu bảo vệ chất lượng môi trường, khu vực không còn khả năng tiếp
nhận chất thải, khu vực môi trường đang bị ô nhiễm thì chỉ chấp thuận
tiếp nhận các dự án đầu tư mới không phát sinh nước thải, khí thải hoặc
có phát sinh nước thải, khí thải đã được xử lý phải thấp hơn hoặc bằng
quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường; đối với trường hợp chưa có
quy chuẩn kỹ thuật môi trường thì phải áp dụng tiêu chuẩn về BVMT của
một trong các nước thuộc Nhóm các nước công nghiệp phát triển G7,
Hàn Quốc; bổ sung quy định về BAT đã được nhiều quốc gia trên thế giới
áp dụng.
Nhóm chính sách về nội dung, trách nhiệm quản lý nhà nước (QLNN) và
việc phân công, phân cấp thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về
BVMT: Bổ sung quy định về nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan QLNN,
nội dung QLNN về BVMT để bao quát được các hoạt động BVMT; cụ thể
hóa trách nhiệm QLNN về BVMT của Chính phủ, Bộ TN&MT, đảm bảo vai
trò thống nhất tham mưu QLNN về BVMT của Bộ TN&MT, trách nhiệm
tham gia tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT của các Bộ, ngành trong
phạm vi quản lý của ngành, lĩnh vực; quy định rõ vai trò, trách nhiệm
QLNN về BVMT của UBND các cấp.
Sửa đổi, bổ sung một số nội dung và trách nhiệm về BVMT trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và hoạt động khác theo ngành, lĩnh
vực, bao gồm: khu kinh tế, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung,
cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề; trong
các hoạt động: nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, y tế, xây dựng, giao
thông vận tải, nhập khẩu phế liệu,…; BVMT khu đô thị, khu dân cư tập
trung, nơi công cộng, hộ gia đình, nông thôn.
Nhóm chính sách về công cụ kinh tế và nguồn lực cho BVMT: Bổ sung,
hoàn thiện các công cụ kinh tế, chính sách ưu đãi của Nhà nước về
BVMT, chính sách phát triển ngành kinh tế môi trường và việc huy động
các nguồn lực cho BVMT. Cụ thể, bổ sung đối tượng chịu thuế là chất thải
vào thuế BVMT với lộ trình chuyển đổi phù hợp; Quy định cơ chế đặt cọc
- hoàn trả, trách nhiệm thu gom, tái chế, xử lý của tổ chức, cá nhân sản
xuất, nhập khẩu một số loại sản phẩm, bao bì; Quy định về thị trường
phát thải và trao đổi hạn ngạch phát thải; Bổ sung chính sách phát triển
ngành kinh tế môi trường, trong đó đưa ra quy định về phát triển các mô
hình tăng trưởng kinh tế bền vững, kinh tế tuần hoàn, phát triển ngành
công nghiệp môi trường, phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ môi
trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; Bổ sung các quy định có tính
nguyên tắc về tín dụng xanh, trái phiếu xanh, thực hiện đối tác công tư
trong BVMT để huy động đa dạng các nguồn lực cho BVMT; việc triển
khai cụ thể được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành;
Hoàn thiện các quy định về nội dung chi hoạt động sự nghiệp BVMT, chi
đầu tư phát triển BVMT; Quy định cụ thể về Giải thưởng Môi trường Việt
Nam. Các công cụ kinh tế được sửa đổi, bổ sung nhằm khuyến khích
doanh nghiệp thân thiện môi trường, chỉ gắn trách nhiệm về tài chính đối
với các đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Nhóm chính sách về quản lý chất lượng môi trường: Quy định các cơ
chế, chính sách nhằm cải thiện và bảo vệ chất lượng môi trường đất,
nước, không khí, đặc biệt bổ sung một số giải pháp về BVMT không khí
như quy định lộ trình loại bỏ các phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi
trường, thực hiện giải pháp phân luồng giao thông, ưu đãi, hỗ trợ, khuyến
khích các phương tiện giao thông công cộng và phương tiện giao thông
cá nhân thân thiện với môi trường, vv.; bổ sung các dự án khai thác tài
nguyên thiên nhiên và các dự án có khả năng gây suy giảm tài nguyên,
gây ô nhiễm hoặc làm biến đổi môi trường phải ký quỹ phục hồi môi
trường. Đặc biệt, đã bổ sung quy định cụ thể về sức khỏe môi trường
nhằm kiểm soát và phòng ngừa các tác hại của các yếu tố môi trường
đến sức khỏe con người.
Nhóm chính sách về quản lý cảnh quan thiên nhiên: Nhằm ngăn chặn
nguy cơ mất cân bằng các hệ sinh thái, suy giảm giá trị của cảnh quan
thiên nhiên và đa dạng sinh học do các tác động tiêu cực của quá trình
phát triển KT-XH, dự thảo Luật đã bổ sung các quy định mới về bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên quan trọng, bồi hoàn đa dạng sinh học, chi trả dịch
vụ hệ sinh thái, nội dung đánh giá tác động đa dạng sinh học trong ĐTM
đối với các cảnh quan thiên nhiên quan trọng, quan trắc đa dạng sinh học.
Nhóm chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu: Quy định cụ thể về nội
dung thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; quy định về
thuế các-bon; lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào hệ thống quy
hoạch và trách nhiệm các cơ quan trong ứng phó với BĐKH. Đặc biệt là
việc bổ sung quy định về hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà
kính và tín chỉ các-bon trong nước, cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon
quốc tế để phù hợp và đáp ứng yêu cầu hội nhập theo các điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên.
Nhóm chính sách về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và bồi
thường thiệt hại về môi trường: Bổ sung các quy định về phòng ngừa,
ứng phó sự cố môi trường theo hướng phân định rõ các loại sự cố môi
trường, gắn với trách nhiệm của các cơ quan liên quan và các biện pháp
ứng phó phù hợp; vai trò, trách nhiệm của cơ quan QLNN về BVMT trong
chỉ đạo, tổ chức thực hiện cải tạo, phục hồi môi trường sau sự cố; bổ
sung bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường là
loại hình bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Quy định cụ thể nguyên tắc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
môi trường đối với trường hợp từ hai tổ chức, cá nhân trở lên gây ô
nhiễm; trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường đối với
UBND các cấp và Bộ TN&MT.
Nhóm chính sách về quan trắc, thông tin, CSDL và báo cáo môi
trường: Đã tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, hoàn thiện quy định về quan trắc
chất thải tự động, liên tục tại doanh nghiệp để phục vụ giám sát và xử lý
vi phạm, trong đó tập trung vào các nguồn thải lớn, giám sát thông số cơ
bản và thông số đặc thù theo tính chất nguồn thải và trình độ phát triển
công nghệ; quy định trách nhiệm cụ thể của một số bộ, ngành trong quan
trắc môi trường; trách nhiệm của Bộ TN&MT trong thiết lập và vận hành
hệ thống quan trắc môi trường, cơ sở dữ liệu môi trường tích hợp trong
hệ thống thông tin môi trường, phục vụ công tác quản lý môi trường, công
bố, công khai thông tin, cung cấp dịch vụ công, giải quyết TTHC về môi
trường. Bổ sung quy định về các chỉ tiêu thống kê quốc gia về môi trường
nhằm đo lường, đánh giá hoạt động BVMT và thống nhất với hệ thống chỉ
tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc; hoàn thiện quy định về báo
cáo công tác BVMT của nhà nước và doanh nghiệp.
Nhóm chính sách về hội nhập, hợp tác quốc tế về BVMT: Dự thảo Luật đã
bổ sung nguyên tắc, làm rõ trách nhiệm của nhà nước và tổ chức, cá
nhân trong hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về BVMT; trách nhiệm
giám sát và báo cáo tình hình hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế
về BVMT; cụ thể hóa việc thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu
và bảo vệ tầng ô-dôn.
Ngoài ra, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi
trường cũng sửa đổi, bổ sung một số quy định về thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm trong lĩnh vực BVMT như: quy định rõ trách nhiệm chỉ đạo
và tổ chức thực hiện công tác thanh tra BVMT; quy định tần suất thanh tra
để tránh chồng chéo, phiền hà cho doanh nghiệp; cơ chế đặc thù về
thanh tra, kiểm tra đột xuất BVMT không cần công bố, thông báo trước;
quy định hoạt động kiểm tra BVMT của lực lượng cảnh sát môi trường để
tránh chồng chéo như hiện nay; tăng thời hiệu, mức phạt tiền, bổ sung
biện pháp xử lý hành chính (biện pháp giáo dục, lao động công ích) trong
xử lý vi phạm về BVMT nhằm bảo đảm tính răn đe đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công cụ quản lý.
Nguồn: https://baotainguyenmoitruong.vn/13-nhom-chinh-sach-cua-du-
thao-luat-bao-ve-moi-truong-sua-doi-nang-cao-hieu-qua-quan-ly-
303169.html
9. Quận Đống Đa: Đẩy mạnh cải cách để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp
Trong thời gian qua, quận Đống Đa tiếp tục phát triển kinh tế theo
đúng định hướng. Qua đó, tạo động lực tăng trưởng cho giai đoạn
tiếp theo.
Bình ổn thị trường, kinh tế phát triển ổn định
Theo số liệu từ Ủy ban nhân dân (UBND) quận Đống Đa, trong quý I,
quận đã thực hiện tốt việc cung ứng hàng hóa, trong đó chủ động dự trữ
hàng hóa phục vụ dịp Tết Nguyên đán, kiểm soát, nắm bắt chặt chẽ tình
hình giá cả và tổ chức tốt hệ thống phân phối không để xảy ra hiện tượng
thiếu hàng và tăng giá.
Cùng với đó, quận đã ban hành kế hoạch về triển khai công tác quản lý
nhà nước về chợ, xử lý giải tỏa nhiều tụ điểm chợ “cóc” trên địa bàn.
Sau khi chuyển giao công tác quản lý, kinh doanh, khai thác chợ Thái Hà
từ Công ty cổ phần đầu tư xây dựng dân dụng Hà Nội sang Ban quản lý
chợ Đống Đa, hiện quận đang tiếp tục nghiên cứu để chuyển giao đơn vị
quản lý, kinh doanh, khai thác chợ Kim Liên, Ngã Tư Sở theo quy định.
Giữ ổn định tình hình hoạt động kinh doanh, buôn bán của các tiểu
thương kinh doanh tại chợ Thổ Quan.
Lãnh đạo quận Đống Đa cho biết, việc chuyển đổi mô hình quản lý chợ
được triển khai công khai, minh bạch, đồng thời tăng cường rà soát quản
lý đầu tư, phát triển, bảo đảm phát triển ổn định, lâu dài, khai thác chợ có
hiệu quả sau chuyển đổi.
Công tác cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh.
(Ảnh minh họa: H.D)
Bên cạnh đó, công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh, tiếp nhận và
giải quyết kịp thời thủ tục hành chính, tỉ lệ hồ sơ nộp trực tuyến của quận
trên các lĩnh vực Thành phố đã triển khai đạt 100%; mức độ hài lòng của
người dân tăng cao. Triển khai thực hiện tốt hệ thống một cửa liên thông
3 cấp và được UBND Thành phố đánh giá tốt.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký kinh doanh, kê
khai thuế, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. Duy trì tỷ lệ
đăng ký kinh doanh qua mạng hiện nay đạt xấp xỉ 100%, tỷ lệ doanh
nghiệp kê khai thuế điện tử đạt trên 98%...
Triển khai giải pháp khống chế dịch và tăng trưởng kinh tế
Trong thời gian tới, quận Đống Đa sẽ tập trung thực hiện các giải pháp về
thu chi ngân sách Nhà nước; khai thác các nguồn thu, đẩy mạnh công tác
kiểm tra chống thất thu thuế, tích cực đôn đốc thu nộp ngân sách, thu hồi
nợ đọng thuế.
Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, tạo điều kiện doanh nghiệp, hộ kinh doanh phát triển. Thực
hiện các biện pháp quản lý giá, niêm yết giá hàng hóa tăng cường kiểm
tra quản lý chất lượng hàng hóa; xử lý kịp thời các trường hợp gian lận
thương mại.
Tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp chuyển hộ kinh doanh thành
doanh nghiệp theo chỉ đạo của Thành phố; triển khai hiệu quả dự toán
ngân sách Nhà nước quận năm 2020. Đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh
tiến độ thi công, giải ngân thanh toán.
UBND quận sẽ đánh giá tác động ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 tới
tăng trưởng của quận theo các kịch bản của Thành phố đề ra. Xây dựng
kế hoạch thực hiện các giải pháp nhằm khống chế dịch, tiếp tục tăng
trưởng đảm bảo công tác thu ngân sách. Khai thác các nguồn thu, đẩy
mạnh công tác kiểm tra chống thất thu thuế, tích cực đôn đốc thu nộp
ngân sách, thu hồi nợ đọng thuế.
Thu Trang
Nguồn: http://laodongthudo.vn/quan-dong-da-day-manh-cai-cach-de-thuc-
day-phat-trien-doanh-nghiep-106942.html
10. Dịch vụ công trực tuyến “thử lửa” qua đại dịch Covid-19
Trong bối cảnh dịch Covid-19 đang gây nhiều hệ lụy, việc vận hành
cổng dịch vụ công quốc gia cho thấy tính ưu việt của giao dịch trực
tuyến.
Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, UBND TPHCM đã chỉ đạo
các sở, ngành, quận, huyện trên địa bàn tăng cường sử dụng dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4.
Việc đẩy mạnh sử dụng dịch vụ công trực tuyến không chỉ đáp ứng yêu
cầu trong thời điểm phòng chống dịch Covid-19 mà còn mang lại nhiều lợi
ích như minh bạch, công khai trong giải quyết thủ tục hành chính, giảm tải
lượng giấy phải sử dụng làm hồ sơ, tiết kiệm chi phí lưu trữ.
Giao diện Cổng dịch vụ công trực tuyến Bộ LĐ-TBXH.
Ông Lê Văn Thinh - Chủ tịch UBND quận Bình Tân, TPHCM cho biết, cán
bộ tại quận Bình Tân đã tăng cường công tác tuyên truyền, vận động
người dân sử dụng các dịch vụ công trực tuyến.
Hiện tại, quận đã triển khai 61 dịch vụ trực tuyến công cấp độ 3 và 13
dịch vụ trực tuyến công cấp độ 4. Không chỉ người dân mà các chuyên
gia và cán bộ TPHCM cũng đánh giá cao hiệu quả phòng chống dịch và
sử dụng hình thức làm việc trực tuyến.
Thực hiện Chỉ thị số 16 ngày 31/3 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện
các biện pháp cấp bách phòng chống dịch Covid-19, Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã có văn bản đề nghị các
bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
các thành viên Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ
tướng Chính phủ, tập trung ứng dụng công nghệ thông tin để phát huy tối
đa lợi thế từ các hệ thống Thông tin Chính phủ điện tử do Văn phòng
Chính phủ và các bộ ngành, cơ quan địa phương triển khai thời gian qua.
Đề nghị của Văn phòng Chính phủ nhằm mục đích hạn chế tối đa nguy cơ
lây nhiễm, bảo đảm hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước và
đáp ứng nhu cầu cấp thiết liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và đời sống người dân.
Sau gần 4 tháng đi vào hoạt động, đến nay đã có 226 dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, mức độ 4 được cung cấp trên cổng với hơn 100.000 tài
khoản đăng ký; 4,3 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái và 27,5 triệu lượt truy
cập tìm hiểu thông tin dịch vụ trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.
Sau 1 năm hoạt động trên trục liên thông văn bản quốc gia đã có hơn 1,6
triệu văn bản điện tử được gửi nhận giữa Văn phòng Chính phủ với các
bộ, ngành, địa phương giúp thay đổi phương thức làm việc, giảm thiểu
văn bản giấy, tiết kiệm chi phí và thúc đẩy việc xử lý hồ sơ công việc trên
môi trường mạng.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, các bộ, ngành địa phương bố trí nhân lực
hợp lý tại bộ phận một cửa các cấp và các điều kiện cần thiết cho việc
phòng chống lây nhiễm để phục vụ hiệu quả, thuận lợi với các trường
hợp tổ chức, cá nhân có yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính trực tiếp.
Văn phòng Chính phủ cũng đề nghị các bộ, ngành địa phương thực hiện
triệt để việc gửi, nhận văn bản điện tử và xử lý hồ sơ công việc trên môi
trường mạng theo các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ. Tổ chức họp và làm việc trực tuyến, các bộ, ngành phối hợp với Văn
phòng Chính phủ mở rộng phạm vi triển khai hệ thống thông tin phục vụ
họp và xử lý công việc của Chính phủ tới điểm cầu của các bộ, các
ngành.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng khẳng định,
trong bối cảnh dịch Covid-19 đang hoành hành gây nhiều hệ lụy, việc vận
hành cổng dịch vụ công quốc gia một lần nữa cho thấy tính ưu việt của
giao dịch trực tuyến.
“Cổng dịch vụ công mang lại lợi ích rất lớn, giúp chúng ta tiết kiệm chi phí
cho người dân, doanh nghiệp về thời gian, tiền bạc”- Bộ trưởng Mai Tiến
Dũng nhấn mạnh.
Để tránh tập trung đông người, tạo thuận lợi tối đa cho người dân và các
tổ chức doanh nghiệp đến tổ chức công việc, hệ thống Tòa án Nhân dân
trên cả nước đã tạm dừng nhận đơn thư tố tụng, khởi kiện, xét xử, tiếp
công dân tại trụ sở. Bưu điện Việt Nam sẽ đảm nhiệm việc chuyển phát
các giấy tờ này về đúng tòa án các cấp mà người dân yêu cầu.
Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao đã chuyển giao nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ và
chuyển phát kết quả đến tận tay người dân yêu cầu qua bưu điện. Dịch
vụ nộp phạt vi phạm giao thông trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia đã
được triển khai tại các địa phương như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Thuận.
GS.TSKH Đặng Hùng Võ cho rằng, sử dụng dịch vụ công trực tuyến
chính là giải pháp g